Ái nhi là gì? Ái nhi khác Ấu dâm ở điểm nào?

637

Xâm hại TD trẻ em luôn là một trong những tội phạm đáng bị khinh thường, ghê sợ nhất mà không gì có thể bào chữa và dung thứ. Hành động phá hủy tuổi thơ, đập tan tâm hồn non nớt của một đứa trẻ sẽ không bao giờ được xã hội chấp nhận.

Tuy nhiên, bạn vẫn cần hiểu đúng về ấu dâm và ái nhi, vì những người chưa phạm tội, họ thực sự cần giúp đỡ. Và giúp đỡ họ cũng chính là tự bảo vệ mình.

Ái nhi là gì?

Ái nhi (tiếng Anh: pedophilia hoặc paedophilia), là bản năng hay ham muốn TD lâu dài và liên tục, phần nhiều hay toàn phần đối với trẻ em chưa đến tuổi thành niên, thông thường ở dưới tuổi 12. Trong chẩn đoán y học, độ tuổi chính xác để tính là ái nhi ở độ tuổi từ trước dậy thì cho tới 13. Một người được coi là ái nhi phải ở độ tuổi ít nhất là 16, nhưng trẻ trong tuổi vị thành niên phải lớn hơn đối tượng bị hại ít nhất 5 tuổi thì mới coi là ái nhi.

Trong phân loại DSM, ái nhi thuộc nhóm lệch lạc TD, người có biểu hiện ái nhi được gọi là người ái nhi (tiếng Anh: pedophile). Hành vi lạm dụng TD trẻ em hay còn gọi là TD huyễn nhi, ấu dâm có liên quan đến hiện tượng này. Ngược lại với hiện tượng này là ái lão, khi người bị lệch lạc TD hướng đến người già.

Ái nhi là gì?
Ái nhi là gì?

Thuật ngữ pedophilia có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp: παιδοφιλια, phiên âm: paidofilia, trong đó pais (παις) nghĩa là trẻ em hay bé trai, filia (φιλια) là tình yêu, tình bạn. Thuật ngữ nguyên thủy của Hy Lạp cổ đại này được nhà tâm thần học người Áo Richard von Krafft-Ebing bắt đầu sử dụng trong thuật ngữ tâm thần học “paedophilia erotica” năm 1886.

Trong các lĩnh vực không chuyên môn, nhất là trong truyền thông đại chúng, ái nhi được dùng để chỉ quan hệ TD với trẻ em chưa đến tuổi thành niên hoặc các hoạt động liên quan đến phim ảnh kích dâm với trẻ em (sản xuất, lưu trữ, phân phối, sử dụng). Do các định nghĩa về ái nhi chưa chính xác và chưa ổn định, mức độ tồn tại của hiện tượng ái nhi trong xã hội không thể xác định bằng phương pháp có thể vượt quá phạm vi của từng phương cách điều tra cụ thể.

Những người ái nhi cần được giúp đỡ! Và giúp họ cũng chính là để bảo vệ chúng ta!

Trong các nghiên cứu, có một số mối liên hệ giữa cấu trúc não bộ với xu hướng “thích trẻ em” của người ái nhi. Tức là những người này bẩm sinh đã là ái nhi, và họ không có quyền lựa chọn.

Giải pháp gần như duy nhất dành cho người ái nhi là giúp họ phát triển những kỹ năng cần thiết để có một cuộc sống lành mạnh, không phạm tội. Một số trường hợp quá nghiêm trọng thậm chí phải “thiến hóa học” – sử dụng thuốc làm giảm ham muốn TD, thậm chí “tắt” vĩnh viễn bản năng của đối tượng.

Nhưng tại sao lại phải giúp đỡ họ? Câu hỏi này chắc chắn được những người cực đoan nghĩ rất nhiều.

Tại sao không đơn giản là cô lập những người này, đẩy họ ra khỏi xã hội?

Câu trả lời là điều này sẽ phản tác dụng! Tiến sĩ Cantor cho biết, theo nhiều thống kê thì những người ái nhi dễ phạm tội nhất khi họ cảm thấy xã hội này không có chỗ cho họ, và họ chẳng có gì để mất. Họ phạm tội vào những thời điểm cảm thấy suy sụp nhất. Và chính sự xa lánh của xã hội sẽ khiến cảm giác suy sụp này tăng lên. Cuối cùng, hoặc họ sẽ tự kết thúc mạng sống của mình, hoặc họ sẽ bất chấp tất cả mà thực hiện tội ác.

Hơn nữa, việc cô lập sẽ khiến người ái nhi không bao giờ dám thừa nhận bản thân. Họ không muốn tìm đến sự giúp đỡ từ các chuyên gia tâm lý, để rồi sống lặng lẽ trong xã hội như những quả bom nổ chậm chỉ chực chờ bùng phát.

Cha mẹ cũng cần phải thay đổi để bảo vệ con cái

Ở các nước phát triển phương Tây, trẻ em được giáo dục rất kỹ về TD và các vấn đề liên quan. Trẻ được học cách tự bảo vệ thân thể, ngăn không cho bất kỳ ai đụng chạm, và biết báo lại cho cha mẹ khi ai đó có hành vi bất thường.

Trong khi đó tại Việt Nam, vấn đề này chưa được chú trọng cụ thể. Chúng ta coi việc đụng chạm là chuyện bình thường. Nhiều bố mẹ Việt Nam có hành vi sờ mó bộ phận sinh dục trẻ nhỏ, qua đó hình thành cho bé suy nghĩ rằng đó là hành vi yêu thương. Và chính họ đang tạo điều kiện cho những người ái nhi có cơ hội thỏa mãn dục vọng của bản thân.

Do vậy, chúng ta cần phải thay đổi. Cần phải dạy cho trẻ biết cách tự bảo vệ bản thân, hiểu rằng cơ thể là điều riêng tư, là thứ không ai được phép chạm vào khi chưa được sự cho phép của bản thân.

(Tổng hợp)